Tổng quan bệnh Graves – viêm tuyến giáp tự miễn Basedow

bệnh Graves là gì

Bệnh Graves là gì?

Bệnh Graves (hay còn gọi là bệnh Basedow) là một bệnh tuyến giáp tự miễn. Cơ thể sản xuất kháng thể chống lại tuyến giáp, có thể khiến tuyến giáp hoạt động quá mức, dẫn đến tăng sản xuất hormone tuyến giáp và cường giáp.

Bệnh Graves được đặt theo tên của bác sĩ đầu tiên mô tả về bệnh, Robert Graves, và là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra bệnh cường giáp.

Nguyên nhân gây ra bệnh Graves là gì?

Hệ miễn dịch của cơ thể phản ứng với tuyến giáp và tạo ra các protein đặc biệt (gọi là kháng thể) tấn công tuyến giáp.

Đây được gọi là phản ứng tự miễn dịch.

Những kháng thể này sau đó sẽ kích thích tuyến giáp làm tăng sản xuất và giải phóng hormone tuyến giáp. Lý do chính xác tại sao phản ứng tự miễn dịch bắt đầu vẫn chưa được hiểu đầy đủ nhưng ở một số người, nó có thể được kích hoạt do nhiễm trùng, căng thẳng hoặc hút thuốc.

Tuy nhiên, hầu hết bệnh nhân đều có tiền sử gia đình mắc các vấn đề về tuyến giáp, do đó gợi ý rằng có mối liên hệ di truyền. Bệnh Graves phổ biến hơn ở phụ nữ từ 20 đến 40 tuổi và ở những người có tiền sử gia đình mắc bệnh này.

Dấu hiệu và triệu chứng của bệnh Graves

Những điều này giống nhau đối với bất kỳ loại hoạt động quá mức nào của tuyến giáp, bất kể nguyên nhân. Các triệu chứng và dấu hiệu thường gặp bao gồm:

  • đánh trống ngực (nhận biết tim đập nhanh, đôi khi không đều)
  • cảm giác nóng và đổ mồ hôi quá nhiều
  • giảm cân – mặc dù cảm giác thèm ăn thường tốt (và đôi khi tốt hơn bình thường)
  • tăng tần suất đi tiêu
  • yếu cơ và mất khối lượng cơ
  • sưng tấy đầu móng tay
  • cảm giác khát nước và đi tiểu thường xuyên
  • khó ngủ, bồn chồn, kích động và thay đổi hành vi
  • kinh nguyệt có thể trở nên không đều (thường trở nên nhẹ hơn)
  • khó thở, đặc biệt là khi gắng sức

Cũng có thể có liên quan đến sưng tuyến giáp ở cổ gây khó nuốt và thở.

Khoảng 2 trong số 5 người mắc bệnh Graves bị lồi mắt (bulging eyes). Điều này là do các kháng thể tấn công tuyến giáp cũng có thể tấn công các cơ và mô xung quanh mắt của bạn. Đây được gọi là bệnh mắt tuyến giáp (Thyroid Eye Disease, TED).

Đây được gọi là bệnh mắt Graves hoặc bệnh mắt tuyến giáp.

Có thể có những thay đổi cụ thể về da ảnh hưởng đến mặt trước của chân, nơi da trông đỏ và sưng tấy. Điều này được gọi là bệnh da liễu Graves hoặc bệnh phù niêm trước xương chày.

Nếu bạn mắc bệnh Graves, bạn cũng có thể bị bướu cổ , tức là tuyến giáp bị sưng lên mà người khác có thể nhìn thấy.

Nếu không được điều trị, bệnh Graves có thể dẫn đến suy tim.

Nếu bạn đang mang thai và kiểm soát bệnh Graves kém, bạn có thể tăng nguy cơ biến chứng, chẳng hạn như sẩy thai và sinh non.

mắt lồi trong bệnh Graves

Bệnh Graves phổ biến như thế nào?

Chỉ hơn 1% số người bị tuyến giáp hoạt động quá mức do bất kỳ nguyên nhân nào. Phụ nữ có nguy cơ mắc bệnh này cao gấp 5 lần so với nam giới.

Bệnh Graves ảnh hưởng đến khoảng 5 trên 1.000 người. Giống như bất kỳ tình trạng tự miễn dịch nào, bệnh Graves phổ biến ở phụ nữ hơn nam giới.

Bệnh Graves có di truyền không?

Bệnh Graves không di truyền.

Tuy nhiên, nó đã được chứng minh là ảnh hưởng đến các thành viên trong cùng một gia đình. Một cặp song sinh giống hệt nhau có nhiều khả năng mắc bệnh Graves hơn nếu cặp song sinh kia bị ảnh hưởng.

Mặc dù có xu hướng di truyền khả năng tự miễn dịch nhưng người mẹ không thể ‘truyền’ tuyến giáp hoạt động quá mức cho con mình.

Bệnh Graves được chẩn đoán như thế nào?

Bác sĩ sẽ hỏi về các triệu chứng và tiền sử bệnh của bạn. Nếu nghi ngờ bệnh Graves, bác sĩ sẽ yêu cầu làm các xét nghiệm:

  • Hoạt động quá mức của tuyến giáp có thể được đánh giá bằng xét nghiệm máu để kiểm tra chức năng tuyến giáp và đo nồng độ hormone tuyến giáp trong máu. Điều này sẽ bao gồm nhiều sự kết hợp khác nhau của hormone kích thích tuyến giáp (hormone truyền tin từ não), thyroxine tự do và triiodothyronine tự do. Thông thường, mức độ hormone kích thích tuyến giáp và thyroxine tự do được kiểm tra ở bước đầu tiên.
  • Bệnh Graves có thể được xác nhận bằng cách đo kháng thể tuyến giáp (peroxidise tuyến giáp hoặc kháng thể thụ thể hormone kích thích tuyến giáp) hoặc bằng cách quét tuyến giáp đặc biệt gọi là quét đồng vị (điều này khác với quét siêu âm ). Tuy nhiên, chẩn đoán thường rõ ràng từ các triệu chứng và trong nhiều trường hợp, những xét nghiệm bổ sung này có thể không cần thiết.
  • Siêu âm có thể được yêu cầu để đo kích thước tuyến giáp của bạn.

Thông thường các xét nghiệm này đều được thực hiện như một bệnh nhân ngoại trú.

Điều trị bệnh Graves

Các triệu chứng của nhiễm độc giáp (nồng độ hormone tuyến giáp cao) có thể được điều trị bằng thuốc chẹn beta (miễn là bệnh nhân có thể dung nạp được). Đây thường là loại điều trị đầu tiên được sử dụng. Mặc dù điều này có thể giúp giải quyết các triệu chứng nhưng nó không ảnh hưởng đến quá trình tự miễn dịch hoặc mức độ hormone tuyến giáp.

Thuốc chống tuyến giáp, carbimazole hoặc propylthouracil, được sử dụng để điều trị tình trạng hoạt động quá mức của tuyến giáp. Carbimazole là loại thuốc được lựa chọn đầu tiên và propylthouracil thường được sử dụng trong thời kỳ mang thai và cho con bú. Thời gian điều trị có thể thay đổi tùy theo từng bệnh nhân, từ 6 tháng đến 24 tháng.

Một số trung tâm sử dụng chế độ điều trị được gọi là ‘chặn và thay thế’, bao gồm ‘chặn’ hoàn toàn hoạt động của tuyến giáp bằng carbimazole và sau đó ‘thay thế’ mức thyroxine cần thiết bằng viên nén tuyến giáp. Ngoài ra, có thể sử dụng chế độ chuẩn độ, trong đó lượng thuốc được cung cấp đủ để ức chế một phần tuyến giáp và giữ mức hormone tuyến giáp tự nhiên của cơ thể ở mức bình thường.

Các phương pháp điều trị khác có thể được sử dụng sau khi tình trạng nhiễm độc giáp cấp tính đã thuyên giảm. Điều này có thể dưới hình thức phẫu thuật (cắt bỏ tuyến) hoặc điều trị bằng iốt phóng xạ (gây phá hủy dần dần tuyến giáp). Cả hai phương pháp này đều có ưu và nhược điểm và bác sĩ chuyên khoa sẽ thảo luận những điều này với bệnh nhân.

Một số bệnh nhân không cần phẫu thuật hoặc điều trị bằng iốt phóng xạ vì thuốc có thể làm giảm tình trạng hoạt động quá mức của tuyến giáp một cách đầy đủ và tuyến giáp có thể hoạt động bình thường sau đó.

Có bất kỳ tác dụng phụ nào khi điều trị không?

Carbimazole có thể gây đau khớp và phát ban ngứa. Quan trọng nhất, carbimazole (cũng như propylthiouracil) có thể làm giảm đáng kể số lượng bạch cầu trong cơ thể và do đó làm giảm khả năng chống nhiễm trùng của cơ thể.

Nếu bệnh nhân bị sốt, đau họng hoặc trở nên không khỏe hơn dưới bất kỳ hình thức nào, họ phải liên hệ với bác sĩ đa khoa hoặc đến khoa cấp cứu để xét nghiệm máu để kiểm tra số lượng tế bào. Mặc dù rất hiếm gặp nhưng biến chứng này có thể gây tử vong nếu chẩn đoán muộn.

Propylthouracil nếu dùng lâu dài có thể gây viêm mạch máu gọi là viêm mạch. Điều này có thể ảnh hưởng đến tất cả các cơ quan. Ngoài ra, propylthiouracil có thể ảnh hưởng đến chức năng gan ở một nhóm rất nhỏ bệnh nhân.

Những tác động lâu dài của bệnh Graves là gì?

Sẽ có khả năng bệnh Graves quay trở lại sau một đợt nhưng khả năng này sẽ giảm dần theo thời gian.

Hút thuốc có thể làm trầm trọng thêm bệnh về mắt tuyến giáp liên quan đến tình trạng này, vì vậy điều quan trọng là phải dừng lại ngay lập tức.

Phẫu thuật, và trong nhiều trường hợp, iốt phóng xạ, sẽ khiến tuyến giáp trở nên kém hoạt động, nghĩa là bệnh nhân sẽ phải dùng thuốc thay thế hormone tuyến giáp (levothyroxine) trong suốt quãng đời còn lại.

Giải pháp thay thế cho phẫu thuật hoặc iốt phóng xạ là dùng thuốc chống tuyến giáp trong thời gian dài (lên đến suốt đời). Nhược điểm của phương pháp này là bệnh nhân vẫn có thể bùng phát bệnh Graves.

*** Bài viết chỉ có giá trị tham khảo. Không thay thế chẩn đoán và điều trị của bác sĩ ***

Leave a Reply